top of page
chọn ngành theo nhu cầu nhân lực
CHỌN NGÀNH THEO NHU CẦU NHÂN LỰC
 
 
Thông qua thực tế chọn ngành dự thi, đối chiếu với quy hoạch nguồn nhân lực của VN đến năm 2020, để gia tăng cơ hội phát triển nghề nghiệp, đóng góp nhu cầu nguồn nhân lực các lĩnh vực đột phá, thí sinh cần thận trọng hơn trong chọn ngành dự thi.
 
Chọn ngành trong thời khủng hoảng kinh tế
Từ năm 2013, Bộ GD-ĐT đã chính thức giảm mạnh chỉ tiêu tuyển sinh vào các ngành kinh tế, quản trị... Việc chuẩn hóa danh mục tuyển sinh cùng với danh mục ngành đào tạo, và nhiều trường ĐH tiếp tục bổ sung thêm khối thi A1 giúp thí sinh có nhiều cơ hội lựa chọn ngành học hơn. Xu hướng chọn ngành học có thay đổi nhưng nhìn chung nhóm ngành kinh doanh tiếp tục là nhóm ngành có nhiều thí sinh lựa chọn nhất.
Xu hướng tránh các ngành năm trước có số thí sinh đăng ký dự thi cao vẫn tiếp tục xảy ra ở nhiều nhóm ngành, dẫn đến các ngành năm 2012 có số thí sinh đăng ký dự thi giảm so với năm 2011, thì năm 2013 tăng lên. Cụ thể, nhóm ngành đào tạo giáo viên tăng 2,05%, nhóm ngành y tăng 1,24%, nhóm ngành xây dựng tăng 0,34%, nhóm ngành ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài tăng 2,43%.
Tỉ lệ đăng ký dự thi giảm mạnh ở các nhóm ngành kinh tế, kinh doanh, kế toán - kiểm toán, tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, trong đó nhóm ngành tài chính - ngân hàng - bảo hiểm giảm mạnh từ 8,9% (vị trí thứ 3 năm 2010) còn 2,64% (thứ 13 năm 2013), nhóm ngành kinh tế từ 3,3% (thứ 9 năm 2009) thì năm 2013 là 1,77% (thứ 19) cho thấy tác động khủng hoảng kinh tế, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực đã tác động đến xu hướng chọn ngành học của thí sinh.
Những nhóm ngành học có xu hướng lên ngôi theo yêu cầu của nền kinh tế, tăng dần từ năm 2010 đến nay như nhóm ngành luật (từ 2,8% năm 2009 lên 4,28% năm 2013); chế biến lương thực, thực phẩm và đồ uống (từ 2% năm 2010 lên 4,44% năm 2013); công nghệ thông tin (từ 3,5% năm 2009 lên 4,18% năm 2013); công nghệ kỹ thuật cơ khí (từ 1,8% năm 2009 lên 3,07% năm 2013); công nghệ kỹ thuật điện, điện tử và viễn thông (từ 2,5% năm 2009 lên 2,93% năm 2013).
 
Ngành “hot” điểm không cao
Tương tự như các năm trước, dù có thay đổi ít nhiều về số lượng, những ngành có đông thí sinh dự thi thường có điểm trung bình không thật sự cao. Thực tế tuyển sinh cho thấy các ngành quản trị kinh doanh, kế toán, công nghệ thực phẩm, công nghệ thông tin, khoa học môi trường, điều dưỡng, giáo dục tiểu học thuộc top 20 ngành thu hút nhiều thí sinh nhất trong gần 300 ngành học có tổ chức tuyển sinh. Nhưng điểm trung bình của thí sinh các ngành này chỉ ở vị trí sau 100, như ngành quản trị kinh doanh có điểm trung bình ở vị trí 134, kế toán 137, công nghệ thông tin 154, công nghệ thực phẩm 149... Lý giải việc này, có thể thí sinh chọn ngành học vượt quá sức học của mình.
Bên cạnh các ngành có tỉ lệ đăng ký dự thi giảm mạnh (quản trị kinh doanh, kế toán...) thì các ngành thuộc nhóm chế biến, thực phẩm có xu hướng tăng đều từ năm 2010 đến nay, có thể kể công nghệ thực phẩm, công nghệ thông tin, y đa khoa, giáo dục tiểu học.
 
Nhu cầu nhân lực lớn
Quy hoạch phát triển nhân lực VN giai đoạn 2011-2020 đặt mục tiêu tăng nhanh tỉ lệ nhân lực qua đào tạo trong nền kinh tế dưới các hình thức, trình độ khác nhau từ mức 40% năm 2010 lên mức 70% năm 2020, trong đó tỉ lệ nhân lực qua đào tạo ngành nông lâm ngư nghiệp tăng tương ứng từ 15,5% lên 50%, ngành công nghiệp từ 78% lên 92%, ngành xây dựng từ 41% lên 56%, ngành dịch vụ tăng từ 67% lên 88%.
Thời kỳ hội nhập sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm với nhiều yêu cầu cao hơn đối với người lao động. Các nhóm ngành như kinh doanh, kinh tế, luật, môi trường, đô thị... vẫn có xu hướng phát triển trong tương lai với tiêu chí tuyển dụng cao hơn, đòi hỏi người xin việc phải có nhiều kỹ năng khác ngoài kiến thức chuyên môn như khả năng giao tiếp và sử dụng vi tính, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng báo cáo...
Với định hướng tạo nguồn nhân lực phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lĩnh vực quản lý - kinh doanh vẫn đang thu hút lượng lớn thí sinh. Trong nền kinh tế dựa vào kỹ năng, bất cứ ngành học nào cũng có thể giúp người học chuẩn bị một số nghề nghiệp khác nhau. Với cùng một ngành học có nhiều cơ sở đào tạo, đặt ra bức tranh về sự cạnh tranh trong đào tạo, bên cạnh công tác truyền thông tốt, bài toán đặt ra đối với các cơ sở chính là làm sao tạo được sản phẩm đào tạo mang bản sắc riêng của trường, thích ứng nhanh với xu thế hội nhập, với nền kinh tế dựa vào kỹ năng.
Vì vậy, thí sinh cần cân nhắc với sức học, tham khảo kết quả thi tuyển sinh các năm trước cùng với nghiên cứu kỹ định hướng nguồn nhân lực của từng địa phương để chọn ngành học phù hợp.
 
Nguồn: Tuổi Trẻ Online (http://tuoitre.vn/Giao-duc/592679/chon-nganh-theo-nhu-cau-nhan-luc.html)
dự báo nguồn nhân lực
DỰ BÁO NGUỒN NHÂN LỰC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2020-2025
 
 
I.  THỰC TRẠNG VÀ NHU CẦU NHÂN LỰC TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
Theo nguồn niên giám thống kê TP.Hồ Chí Minh năm 2012 và phân tích kết quả điều tra lao động việc làm của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội TP năm 2010 – 2012 cho thấy:
 
1.  Nguồn cung lao động:
Nguồn lao động thành phố có tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 3,5% / 1 năm và tăng dần qua các năm. Năm 2012, tổng nguồn lao động (bao gồm những người trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao động vẫn có khả năng lao động) theo số liệu thống kê có 5,5 triệu người chiếm tỷ lệ 70,6% dân số.
Tổng số lao động từ 20 tuổi đến 45 tuổi chiếm 65,81% trong các nhóm tuổi tham gia lao động, nhóm tuổi 20-24 chiếm cao nhất 16,7%, nhóm tuổi 25-29 chiếm 15,18%, nhóm tuổi 30-34 chiếm 17,58%.
Tổng số lao động Nữ chiếm tỷ lệ 52,41% tổng số lao động, tỷ lệ lao động Nữ trong các nhóm tuổi luôn cao hơn tỷ lệ lao động Nam.
Trình độ học vấn của nguồn lao động TP số tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên tỷ lệ 47,6%; tốt nghiệp trung học cơ sở tỷ lệ 27,34%.
Tổng số lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ 59% tổng số lao động.
Hàng năm tại thành phố có 70.000 sinh viên các trường Đại học, cao đẳng tốt nghiệp ra trường kể cả số học viên trung cấp, công nhân kỹ thuật, đào tạo ngắn hạn có khoảng 180.000 người, trong đó các ngành nghề chuyên môn kỹ thuật chiếm 40%, các ngành nghề chuyên môn quản lý nghiệp vụ chiếm 60% tổng số được đào tạo.
Tổng số lao động đang làm việc có trên 04 triệu người chiếm tỷ lệ 72,89% so tổng nguồn lao động. Trong tổng số lao động đang làm việc chuyên môn kỹ thuật bậc cao chiếm 11,40%; chuyên môn kỹ thuật bậc trung chiếm 6,44%; các nghề giản đơn và thợ chiếm 49,28% và các loại công việc khác chiểm 32,88%.
Tỷ lệ lao động Nữ đang làm việc chiếm tỷ lệ 44%; lao động Nữ đang làm việc trong các ngành Công nghiệp Dệt may, Giày da, Tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ lệ 46%; tỷ lệ lao động Nữ làm việc trong các ngành Nông – Lâm – Ngư nghiệp chiếm tỷ lệ 34,7%.
Tỷ lệ lao động thất nghiệp tại thành phố bình quân ở mức 5,10%.
 
2. Nguồn cầu lao động:
Cơ cấu lao động đang làm việc tại TP Hồ Chí Minh theo 3 ngành kinh tế như sau:
- Khu vực sản xuất công  nghiệp, xây dựng có 1,8 triệu người, chiếm tỷ lệ 46,29% tổng số lao động đang làm việc.
- Khu vực thương mại, dịch vụ có 2 triệu người, chiếm tỷ lệ 51,78% tổng số lao động đang làm việc.
- Khu vực nông nghiệp có trên 700.000 người, chiếm tỷ lệ 1,83% tổng số lao động đang làm việc.
Cơ cấu lao động đang làm việc nhóm ngành Dịch vụ; ngành Thương nghiệp – Khách sạn – Nhà hàng chiếm 55,18%; Vận tải – Kho bãi- Thông tin chiếm 15,15%; Tài chính – Ngân hàng chiếm 2,81%.
Về tiền lương và giá nhân công vẫn thể hiện thực trạng chênh lệch giữa các khu vực kinh tế, ngành kinh tế. Bình quân giá cả sức lao động của các khu vực, các ngành kinh tế so thực tế đảm bảo nhu cầu đời sống người lao động thấp hơn từ 40% – 50%.
Theo số liệu của Cục thống kê Thành phố, trong giai đoạn 2005-2010, năng suất lao động của cả 03 khu vực kinh tế đều tăng. Năng suất trung bình của khu vực nông nghiệp đạt 22,87%, khu vực công nghiệp – xây dựng có năng suất lao động cao nhất đạt 82,12%, khu vực thương mại – dịch vụ đạt 77,35%.
 
3. Nhận định tổng quan thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh
a. Mặt tích cực:
-  Kinh tế thành phố có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục, vai trò chủ lực đối với sự phát triển chung của khu vực và cả nước, cơ cấu kinh tế thành phố và một phần cơ cấu nguồn nhân lực đã và đang chuyển dịch phù hợp định hướng quá trình đô thị hóa.
-  Thành phố đặc biệt quan tâm và định hướng cụ thể việc phát triển nguồn nhân lực; với thế mạnh về giáo dục – đào tạo, khoa học kỹ thuật để phát triển các ngành kỹ thuật cao và dịch vụ hiện đại.
-  Các doanh nghiệp luôn tích cực phát triển năng động, quan tâm các chính sách thu hút nguồn nhân lực đặc biệt nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Đặc biệt, sự đa dạng ngành nghề và phát triển nhanh quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là môi trường phù hợp thu hút lao động là sinh viên, học sinh còn thiếu kinh nghiệm và kỹ năng nghề.
-  Hệ thống đào tạo của thành phố phát triển khá nhanh, quy mô đa ngành nghề, nhân lực luôn được đào tạo bổ sung, đào tạo lại để thay thế các vị trí không còn phù hợp hoặc chỗ làm việc mới theo yêu cầu trình độ, chất lượng lao động, ngành nghề chuyên môn với các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực.
-  Sự thay đổi tích cực về nhận thức và các giải pháp đầu tư nâng cao đào tạo gắn với sử dụng lao động, cân đối trình độ đào tạo với nhu cầu nhân lực theo ngành nghề để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thúc đẩy nguồn nhân lực đặc biệt đối với thanh niên về tự học tập, nâng cao trình độ đào tạo và các kỹ năng nghề.
b. Mặt hạn chế
-  Thị trường lao động thành phố đang tồn tại nghịch lý, nhiều người thất nghiệp hoặc mất việc làm đồng thời với nhiều doanh nghiệp tuyển dụng lao động có nghề và lao động phổ thông nhưng không tuyển được lao động. Theo số liệu của Tổng cục Dạy nghề, cơ cấu lao động qua đào tạo của Việt Nam hiện nay là 1:3, tức là cứ một sinh viên tốt nghiệp đại học thì có ba học viên tốt nghiệp trường nghề, trong khi đó, cơ cấu ở các nước tiên tiến trong khu vực lại là 1:10, cho thấy một sinh viên tốt nghiệp đại học thì có mười học viên tốt nghiệp trường nghề. Như vậy, để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, lực lượng thợ kỹ thuật còn thiếu nhiều so với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
- Vấn đề nghịch lý là TPHCM đang rất thừa lao động không phù hợp với những ngành nghề nằm trong định hướng phát triển nhưng lại rất thiếu nhân lực chất lượng cao ở những ngành cần thiết cho sự phát triển. Thực trạng chung là phần lớn sinh viên tốt nghiệp ra trường vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm phù hợp và ổn định, do chưa định hướng đúng về nghề nghiệp – việc làm, vì một số sinh viên chọn ngành học chưa phù hợp năng lực, sở trường và xu hướng phát triển thị trường lao động. Mặt khác các doanh nghiệp rất quan tâm tuyển chọn đối với sinh viên tốt nghiệp về kiến thức ngoại ngữ, khả năng hợp tác, kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, những hiểu biết về môi trường văn hóa doanh nghiệp và tác phong làm việc công nghiệp. Sự hạn chế lớn của sinh viên khi ra trường, đa số chưa định hướng được cụ thể để chọn một ngành chuyên môn phù hợp với khả năng, đồng thời do hệ thống thông tin thị trường lao động và hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm thành.
- Theo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động thành phố chỉ có khoảng 80% sinh viên sau khi tốt nghiệp tìm được việc làm, còn 20% tìm việc rất khó khăn hoặc không tìm được việc làm phải chuyển đổi ngành học hoặc làm những công việc thấp hơn trình độ đào tạo. Trong tổng số sinh viên tìm việc làm chỉ có 50% là có việc làm phù hợp năng lực và phát triển tốt, 50% làm việc trái ngành nghề thu nhập thấp, việc làm chưa thực sự ổn định và có thể chuyển việc khác. Vấn đề kỹ năng mềm là yêu cầu mà nhiều sinh viên học sinh chưa đáp ứng được.
-  Tỷ lệ thất nghiệp của thành phố cao (trung bình hơn 5%). Nguyên nhân thất nghiệp xuất phát từ tăng trưởng kinh tế gặp khó khăn, tuy nhiên có thể thấy hai lý do cơ bản gây ra thất nghiệp.
+    Có ít chỗ làm việc hơn là nhu cầu của người tìm việc làm phù hợp ngành nghề đã được đào tạo.
+    Số lượng chỗ làm việc nhiều, nhưng nhiều người tìm việc làm không đáp ứng trình độ hoặc không muốn làm những công việc đó.
Trường hợp thứ nhất tồn tại về “thiếu hụt chỗ làm việc”, trường hợp thứ hai về “không phù hợp cơ cấu đào tạo nghề và nhu cầu nhân lực”. Như vậy, có thể nhận định, nguyên nhân thất nghiệp cốt lõi là vấn đề đào tạo nghề, kỹ năng nghề, dự báo nhu cầu, phân bổ nguồn nhân lực và các chính sách thu hút, sử dụng lao động còn mất cân đối, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế kinh tế – xã hội thành phố phát triển.
-  Tình trạng phân bố nhân lực không đồng đều giữa các khu vực kinh tế, ngành kinh tế tạo mất cân đối nhu cầu nhân lực và việc làm. Điều quan tâm là khu vực kinh tế phi kết cấu chiếm tỷ lệ 45% và đang có xu hướng tăng với đa dạng ngành nghề, nhiều chỗ làm việc mới thu hút ngược lại khu vực kinh tế chính thức.
-  Những hạn chế về công tác quản lý nhà nước về nguồn nhân lực đặc biệt chưa tổ chức hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực, thông tin thị trường lao động, dịch vụ giao dịch thị trường lao động (tư vấn, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động) có hiệu quả cao.
 
II. XU HƯỚNG NHU CẦU NHÂN LỰC CÓ TRÌNH ĐỘ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ GIAI ĐOẠN 2013 – 2020 ĐẾN 2025:
Trong 4 năm qua 2009 – 2013, Trung tâm Dự báo Nhu cầu Nhân lực và Thông tin Thị trường lao động TP.Hồ Chí Minh đã khảo sát thường xuyên tình hình sử dụng lao động và nhu cầu tuyển dụng lao động tại doanh nghiệp, từ đó cập nhật cơ sở dữ liệu về nhu cầu nhân lực và phân tích diễn biến thông tin thị trường lao động. Kết quả thực hiện bình quân trên 2.000 doanh nghiệp – 10.000 chỗ làm việc trống/tháng và 15.000 người có nhu cầu tìm việc/tháng trên địa bàn thành phố. Đồng thời ứng dụng phương pháp phân tích; quy trình dự báo để thực hiện sản phẩm báo cáo định kỳ tháng, quý, sáu tháng, năm về phân tích thị trường lao động TP.Hồ Chí Minh và dự báo nhu cầu nhân lực trung hạn, dài hạn bằng các phương pháp sau:
+ Phương pháp dự báo định tính (phiếu thăm dò và thu thập ý kiến chuyên gia);
+ Phương pháp dự báo kinh tế lượng (mô hình kinh tế lượng và mô hình cân bằng tổng thể);
+ Phương pháp FSD (phân loại dữ liệu và module dự báo cầu lao động).
+ Phương pháp dự báo số bình quân trượt.
Từ kết quả dự báo xác định nhu cầu nhân lực có trình độ tại TP Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2013 – 2015 – 2020, dự kiến nhu cầu nhân lực 1 năm khoảng 270.000 chỗ việc làm trống (trong đó: lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 31% với 89.100 chỗ việc trống). Cụ thể nhu cầu nhân lực từng nhóm ngành nghề như sau
 
Biểu 1: NHU CẦU NHÂN LỰC 04 NHÓM NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRỌNG YẾU
TP.HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2013-2015, XU HƯỚNG ĐẾN 2020-2025
Biểu 2: NHU CẦU NHÂN LỰC 09 NHÓM NGÀNH DỊCH VỤ
TP.HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2013-2015, XU HƯỚNG ĐẾN 2020-2025
 Biểu 3: NHU CẦU NGÀNH NGHỀ KHÁC THU HÚT NHIỀU LAO ĐỘNG
TP.HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2013-2015, XU HƯỚNG ĐẾN 2020-202
 Biểu 4 : NHU CẦU NHÂN LỰC QUA ĐÀO TẠO PHÂN THEO 08 NHÓM NGÀNH TP.HỒ CHÍ MINH
GIAI ĐOẠN 2013-2015, XU HƯỚNG ĐẾN 2020-2025
Ghi chú: Tổng số 202.500 chỗ làm việc tính trên  nhu cầu nhân lực qua đào tạo có trình độ Sơ cấp nghề – Trung cấp  – Cao đẳng – Đại học
 
Biểu 5: NHU CẦU TRÌNH ĐỘ NGHỀ TP.HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2013-2015, XU HƯỚNG ĐẾN 2020-2025

NGUỒN DỮ LIỆU THÁNG 11/2013

Thực trạng thị trường lao động những năm gần đây tại thành phố luôn diễn biến tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ nghề chuyên môn lành nghề và nhân lực; cho thấy tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động chất lượng cao trong các ngành kỹ thuật, quản lý sản xuất – kinh doanh. Vì vậy, việc tham gia đồng bộ của các ngành, các cấp, các đoàn thể xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, trường đào tạo và xã hội là điều cấp thiết hiện nay để từng bước nâng cao nguồn nhân lực có chất lượng và hạn chế sự nghịch lý.

 

Nguồn: Blog Kiến Thức Kinh Tế
(http://chapcanh.blogkienthuckinhte.com/du-bao-nguon-nhan-luc-thanh-pho-ho-chi-minh-den-nam-2020-2025)

VIETEDU - EDUCATION INFORMATION

Add: 276 Dien Bien Phu Street, Ward 17, Binh Thanh District, Ho Chi Minh City

Website Views

© 2014 by VietEdu

bottom of page